Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế – Tài chính, mặc dù lương cơ sở được tăng từ 1/7/2024, nhưng việc điều chỉnh lương chủ yếu diễn ra trong khu vực công có quy mô không lớn trong nền kinh tế (chưa đến 8%). Bởi vậy, các tác động từ việc tăng lương tới lạm phát thời gian tới sẽ không quá lớn.
Theo số liệu mới được Tổng cục Thống kê công bố, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 tăng 4,34% so với cùng kỳ năm trước. Tính trung bình, CPI đã tăng 4,39% trong quý II và tăng 4,08% trong 6 tháng đầu năm 2024.
TS Nguyễn Đức Độ: Áp lực lạm phát cả năm nay không lớn
Phát biểu tại Hội thảo “Diễn biến thị trường, giá cả ở Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2024” sáng 3/7, chuyên gia kinh tế, TS Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế – Tài chính nhận định: Trên thực tế, áp lực lạm phát trong năm nay không quá lớn.
Theo vị chuyên gia, việc lạm phát so với cùng kỳ và lạm phát trung bình ở mức cao như hiện nay chủ yếu là do tác động từ các cuộc điều chỉnh giá dịch vụ y tế và giáo dục trong quý III/2023. Bởi vậy, trong quý III năm nay, khi hiệu ứng từ các cuộc điều chỉnh giá này giảm dần, lạm phát so với cùng kỳ sẽ giảm mạnh và lạm phát trung bình cũng sẽ giảm theo, nếu không có các cuộc điều chỉnh giá quy mô lớn đối với các mặt hàng được Nhà nước quản lý.
Làm rõ hơn về nhận định áp lực lạm phát năm nay không quá lớn, trong cuộc trao đổi với phóng viên Doanh nhân Việt Nam bên lề hội thảo, TS Nguyễn Đức Độ chia sẻ: “Nếu nhìn trong 6 tháng đầu năm 2023 thì lạm phát chỉ tăng trung bình 0,23%/ tháng. Còn nếu nhìn trong quý II/2024 thì tốc độ tăng CPI trung bình 0,1%/tháng. Nếu tốc độ tiếp tục được duy trì thì lạm phát năm nay sẽ xoay quanh mức trung bình 3,4%”.
Ông Độ chỉ ra 5 lý do để dự báo trong 6 tháng cuối năm 2024, áp lực lạm phát sẽ không quá lớn.
Đầu tiên là mặc dù nền kinh tế đang phục hồi với tốc độ tăng trưởng GDP trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt mức 6,42% và dự báo cả năm có thể đạt mức 6,5%, nhưng xét cả giai đoạn 2020-2024, GDP chỉ tăng trung bình khoảng 5%/năm, thấp hơn mức trung bình 6,1% của giai đoạn 2014-2024, tức là nền kinh tế trong năm 2024 vẫn đang hoạt động ở dưới mức tiềm năng.
Tiếp đó, tốc độ tăng trưởng tiêu dùng trong giai đoạn 2020-2024 luôn ở mức thấp hơn khá nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP, khoảng 3,9%/năm. Nói cách khác, cầu tiêu dùng vẫn còn yếu. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp sẽ quan tâm đến việc tiêu thụ hàng hóa hơn là tăng giá.
Ngoài ra, mặc dù tỷ giá tăng mạnh trong 6 tháng đầu năm (tăng 4,17% so với tháng 12/2023; tăng 7,66% so với cùng kỳ; bình quân 6 tháng đầu năm 2024 tăng 5,64%), nhưng lạm phát hàng tháng trong 6 tháng đầu năm 2024 không cao. Hơn nữa, đà tăng của tỷ giá đã chững lại trong tháng 5-6/2024, và được dự báo sẽ ổn định, thậm chí giảm, trong 6 tháng cuối năm, khi Fed hạ lãi suất 1-2 lần và đồng USD có thể giảm giá trên thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, giá dầu tương đối ổn định trong thời gian qua khi dao động xung quanh mức 80 USD/thùng và khó tăng mạnh trong 6 tháng cuối năm do nguy cơ suy thoái kinh tế Mỹ vẫn hiện hữu khi Fed duy trì lãi suất ở mức cao.
Lãi suất, mặc dù thấp, nhưng vẫn được duy trì ở mức thực dương và giúp kiềm chế lạm phát, còn cung tiền và tín dụng tăng trưởng ở mức thấp trong 6 tháng đầu năm 2024. Cụ thể, tính đến thời điểm 24/6/2024 tăng trưởng huy động vốn và tín dụng của các tổ chức tín dụng mới đạt tương ứng 1,5% và 4,45%.
Cuối cùng, mặc dù lương cơ sở được tăng từ 1/7/2024, nhưng việc điều chỉnh lương chủ yếu diễn ra trong khu vực công có quy mô không lớn trong nền kinh tế (chưa đến 8%). Bởi vậy, các tác động từ việc tăng lương tới lạm phát thời gian tới sẽ không quá lớn.
Các phân tích ở trên cho thấy không có nhiều yếu tố gây tăng giá đột biến trong 6 tháng cuối năm 2024 (ngoại trừ việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý chưa được công bố về quy mô và thời điểm). Vì vậy, có thể kỳ vọng tốc độ tăng giá trong 6 tháng cuối năm sẽ ở mức tương đương so với trong 6 tháng đầu năm 2024 (nếu không có các đợt điều chỉnh giá dịch vụ quy mô lớn).
Từ những phân tích trên, TS Nguyễn Đức Độ đưa ra 3 kịch bản về tình hình lạm phát năm 2024.
Trong kịch bản cao, giá dầu tăng nhẹ, tỷ giá ổn định, CPI tăng trung bình 0,23%/tháng trong 6 tháng cuối năm 2024 (tương đương mức tăng trong 6 tháng đầu năm 2024). Lúc đó, lạm phát so với cùng kỳ vào tháng 12/2024 sẽ ở mức 2,8% và lạm phát trung bình cả năm 2024 sẽ ở mức 3,6%.
Trong kịch bản trung bình, giá dầu và tỷ giá đều ổn định, CPI tăng trung bình 0,1%/tháng trong 6 tháng cuối năm 2024 (như trong quý II/2024). Lúc đó, lạm phát so với cùng kỳ vào tháng 12 sẽ giảm về mức 2% và lạm phát trung bình cả năm ở sẽ mức 3,4%.
Trong kịch bản thấp, kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái cuối năm 2024, giá dầu và tỷ giá giảm, CPI tăng trung bình 0%/tháng, thậm chí có thể giảm, trong 6 tháng cuối năm 2024. Lúc đó, lạm phát so với cùng kỳ vào tháng 12 sẽ giảm về mức 1,4% và lạm phát trung bình cả năm 2024 sẽ ở mức 3,2%.
Như vậy, về tổng thể, nếu không có các cuộc điều chỉnh giá dịch vụ quy mô lớn, lạm phát trung bình cả năm 2024 được dự báo sẽ xoay quanh mức 3,4% (+/- 0,2%), tức là rơi vào kịch bản cao trong dự báo từ đầu năm 2024 là 3% (+/- 0,5%).
TS Nguyễn Trí Hiếu: Cần thận trọng các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến lạm phát trong nước
Trong một góc nhìn thận trọng, chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu chia sẻ với phóng viên: “Từ đây (tháng 6/2024) đến cuối năm còn có rất nhiều biến cố; không những là quốc nội mà còn là tình hình kinh tế của thế giới. Tất cả những khủng hoảng sẽ tác động đến giá thế giới và cuối cùng là giá cả tại Việt Nam.
Đây là thời điểm rất khó dự báo cho lạm phát của Việt Nam trong cả năm 2024. Nhưng tôi nghĩ rằng mục tiêu lạm phát 4% là một mục tiêu khá thách thức cho Việt Nam”.
Chuyên gia phân tích thêm: “Trước tiên là từ ngày 1/7, Chính phủ đã điều chỉnh tăng lương. Điều chỉnh lương thường tác động đến lạm phát. Khi người ta điều chỉnh lương thì tất cả nhà sản xuất kinh doanh cũng đều nhìn thấy rằng người dân có sức tiêu thụ nhiều hơn và cũng tăng giá lên”.
Tiếp đó, từ nay đến cuối năm, ông Hiếu đánh giá có rất nhiều yếu tố trên thị trường thế giới có thể ảnh hưởng tới giá cả của Việt Nam, đặc biệt là tỷ giá. Fed hiện tại chưa đưa ra lộ trình giảm lãi suất như thế nào. Nhiều chuyên gia trên thế giới cho rằng có thể đến quý IV/2024 thì Fed mới có thể giảm lãi suất và nếu có giảm thì ở mức độ khoảng 0,25%. Có nghĩa là từ đây cho đến cuối năm lãi suất của Mỹ vẫn cao và tại thời điểm này ở mức 5,25% – 5,5%, trong khi lãi suất qua đêm của Việt Nam ở mức khoảng 4,5%. Chênh lệch lãi suất giữa Mỹ và Việt Nam khoảng 1% và chênh lệch đó có thể sẽ đẩy tỷ giá lên.
“Trong những ngày qua tỷ giá ổn định nhưng tôi nghĩ rằng sẽ tăng trong khoảng từ đây đến cuối năm do chênh lệch lãi suất giữa đồng USD và VND. Từ đầu năm, tỷ giá đã tăng hơn 5%. Tôi nghĩ dưới những điều kiện hiện tại tỷ giá có thể tăng thêm khoảng 2%”, vị chuyên gia nhận định.
Cùng đó, vấn đề được rất nhiều người quan tâm gần đây là vàng. Ông Hiếu cho rằng mặc dù giá vàng không nằm trong rổ tiền tệ để tính CPI của Việt Nam nhưng giá vàng ảnh hưởng tới tâm lý lạm phát. “Nếu chúng ta tạo được sự bình ổn trên thị trường vàng thì sẽ không tác động đến lạm phát của Việt Nam. Ở chiều ngược lại, nếu thị trường vàng có sự bất ổn nào đó thì nó sẽ tác động đến tâm lý lạm phát. Bởi tâm lý giá vàng tăng lên thì tất cả mọi giá có thể tăng theo”.
Ngoài ra, giá xăng, dầu là một trong những yếu tố quan trọng trong rổ tiền tệ, hiện tại giá dầu WTI USD/Bbl ở mức khoảng 84 USD/thùng. Với những khủng hoảng trên thế giới về địa chính trị thì có thể từ đây đến cuối năm giá dầu tăng lên, kéo theo giá dầu tại Việt Nam cũng tăng theo và tác động đến toàn nền kinh tế.
“Tôi nghĩ là năm nay lạm phát có thể sẽ tăng cao hơn 4% lạm phát mục tiêu của chúng ta”, chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh.